Sự khác biệt về giáo dục giữa Phần Lan và Việt Nam
Cập nhật: 13.09.2017 08:37


Chương trình đào tạo quốc gia của Phần Lan gồm 3 cấp độ: chương trình đào tạo cấp quốc gia, cấp địa phương (tỉnh/thành phố - trường học), và chương trình của từng cá nhân học sinh.

Tài liệu soạn thảo chương trình đào tạo cấp quốc gia có nhiệm vụ chỉ ra chủ trương và định hướng của chính phủ qua các chiến lược phát triển giáo dục cụ thể, nhằm nhấn mạnh tính chỉnh thể của hệ thống giáo dục.

Ở địa phương, các trường được cung cấp sách và tài liệu học tập.

Tuy nhiên, nếu hiệu trưởng hay tập thể giáo viên không hài lòng về vài phần soạn thảo, họ có thể đề nghị thành phố mua sách của một nhà xuất bản tư nhân, hoặc thay đổi phương pháp giảng dạy với cùng một nội dung như cũ.

Như vậy, Phần Lan không hề có duy nhất một bộ sách giáo khoa cho toàn quốc như nước ta.


Lớp học Gia chánh của học sinh lớp 8 tại Phần Lan.
.

Tháng 8 năm 2017, Phần Lan trải qua một cuộc cải cách cấp quốc gia về chương trình giảng dạy. Theo đó, sách giáo khoa sẽ phải có nhiều thay đổi.

Hơn nữa, triết lý giáo dục của đất nước này cho rằng mỗi đứa trẻ đều đặc biệt, và được hưởng một nền giáo dục chất lượng và công bằng.

Vì vậy, dựa trên năng lực của từng học sinh mà các giáo viên có thể thiết kế giáo án riêng cho những em cần những sự hỗ trợ đặc biệt.

Ngay cả nếu một đứa trẻ 5 tuổi muốn đọc sách mà trường không sẵn có, hiệu trưởng phải đề xuất lên thành phố để trang bị thêm theo nhu cầu của học sinh. Và tất cả đều là miễn phí.

Hiện nay, Phần Lan đang nghiên cứu các mô hình lớp học tập trung phát triển năng lực thông qua làm việc nhóm, các dự án thực tế; nghĩa là không chú trọng vào một môn học nào nhất định.

Mặc dù chương trình đào tạo theo cải cách năm 2017 vẫn chú trọng dạy và học các bộ môn như Toán, Ngoại ngữ, Khoa học, v.v... chỉ một số nhỏ lớp học đang trong quá trình thí điểm phương pháp này, bên cạnh giảng dạy các môn học khác.

Nói như vậy để thấy rằng, không hiểu biết về hệ thống đào tạo của đất nước Bắc Âu này, thì đề nghị họ "chuyển giao" chương trình, sách giáo khoa của họ là điều thật sự phải cân nhắc.

Một hế thống tập trung dường như là hoàn hảo.

Thứ nhất, chương tình đào tạo trọng yếu là do chính phủ đề xuất và hướng dẫn, nhưng thành phố và hiệu trưởng lại có quyền quyết định trực tiếp về sách và tài liệu giảng dạy.

Thứ hai, đạo luật về giáo dục phổ thông năm 1970 "triệt tiêu" sự sinh tồn của các trường tư.

Sau cuộc cải cách lịch sử đấy, chỉ còn 85 trường dân lập khắp đất nước.

Thế nhưng, họ không được thu học phí, không được quyền tuyển sinh (ngoại trừ trường cấp ba), không được tài trợ cho lĩnh vực nghiên cứu về trường dân lập, và phải nhận ngân sách từ thành phố.

Thứ ba, sự khác biệt giữa các trường và giữa các học sinh là rất nhỏ.

Thứ tư, tất cả giáo viên phải có ít nhất bằng thạc sĩ (ngoại trừ giáo viên mầm non không chủ nhiệm lớp).

Và một điều đáng nói là ảnh hưởng kinh tế-xã hội của đất nước này lên nền giáo dục là hoàn toàn không đáng kể.


Lớp học Cơ khí của học sinh lớp 7 tại Phần Lan.

.

Nói về văn hóa Tin Cậy trong giáo dục, đây là thành công lớn nhất mà chiến lược lãnh đạo xây dựng suốt 40 năm qua.

Giáo viên Phần Lan được trao quyền tự quản - tự quyết hoàn toàn về nội dung được định hướng và phương pháp giảng dạy. Vấn đề sẽ nảy sinh khi cơ cấu không phù hợp với môi trường, hoàn cảnh, chiến lược và công nghệ.

Nhìn lại bản chất của nền giáo dục nước ta, phức tạp, đa chiều và sự phát triển của xã hội lại chuyển biến không ngừng.

Tất nhiên, trong bối cảnh của những thay đổi và toàn cầu hóa, cải cách, đổi mới và sáng tạo, áp dụng phù hợp từng phần là điều mà lãnh đạo phải làm.

Vì vậy, hiểu rõ chương tình đào tạo của Phần Lan là điều tiên quyết để lãnh đạo đưa ra những quyết định khôn ngoan trong cuộc hợp tác giáo dục này.

 

Điều 29. Chương trình giáo dục phổ thông, sách giáo khoa

1. Chương trình giáo dục phổ thông thể hiện mục tiêu giáo dục phổ thông; quy định chuẩn kiến thức, kỹ năng, phạm vi và cấu trúc nội dung giáo dục phổ thông, phương pháp và hình thức tổ chức hoạt động giáo dục, cách thức đánh giá kết quả giáo dục đối với các môn học ở mỗi lớp và mỗi cấp học của giáo dục phổ thông.

2. Sách giáo khoa cụ thể hóa các yêu cầu về nội dung kiến thức và kỹ năng quy định trong chương trình giáo dục của các môn học ở mỗi lớp của giáo dục phổ thông, đáp ứng yêu cầu về phương pháp giáo dục phổ thông.

3. Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành chương trình giáo dục phổ thông, duyệt sách giáo khoa để sử dụng chính thức, ổn định, thống nhất trong giảng dạy, học tập ở các cơ sở giáo dục phổ thông, trên cơ sở thẩm định của Hội đồng quốc gia thẩm định chương trình giáo dục phổ thông và sách giáo khoa.

Tác giả Nguyễn Uyên Phượng, nghiên cứu sinh về giáo dục tại Phần Lan